Sau khi lên ngôi hoàng đế vào năm 1802, vua Gia Long bắt tay vào quá trình xây dựng đất nước. Và một việc vô cùng quan trọng đối với mỗi triều đại là xây dựng kinh đô, nơi bảo vệ quyền lực của vương Triều. Từ năm 1803, vua Gia Long đã bắt đầu quá trình quy hoạch, thiết kế kinh thành Huế. Đến 1805 thì bắt đầu công cuộc xây dựng toàn bộ kinh thành
Về tổng thể kinh thành Huế gồm có 3 vòng thành. Mỗi vòng thành đều có chức năng riêng, tất cả đều hướng về phía Nam (lệch Đông)
Tên gọi của 3 vòng thành ấy theo thứ tự ngoài lớn vào phía trong nhỏ như bên dưới:
- Kinh thành: vòng ngoài cùng gồm 13 cửa ra vào (11 cửa đường bộ và 2 cửa đường thủy)
- Hoàng thành: vòng thành giữa gồm 4 cửa ra vào
- Tử cấm thành: vòng thành trong cùng. Lúc mới xây dựng thì chỉ có 7 cửa. Về sau trổ thêm 3 cửa
Kinh thành Huế với 13 cửa ra vào đều có tên chữ Hán khắc ở mặt trước và sau cửa. Đây là tên chính thức của Nhà Nguyễn đặt. Còn người dân thì vẫn hay gọi tên theo thói quen liên hệ tới 1 cái gì đó cho dễ nhớ

Các cửa ra vào Kinh thành Huế
1. Tên gọi 11 cửa đường bộ
Trừ cửa Chánh Tây và Trấn Bình Môn ra, thì 9 cửa còn lại đều có tên dân gian
Mặt thành hướng Nam gồm 4 cửa: trong đó 2 cửa sát kỳ đài gọi là NAM VƯƠNG MÔN, 2 cửa này chỉ dành cho hoàng gia đi. Tên dân gian là Cửa Ngăn và Cửa Sập
1️⃣ Cửa Ngăn (cửa THỂ NHÂN): dành cho vua và hoàng gia ra vào, mỗi lần vua và hoàng gia ra vào kinh thành thì triều đình cho lính ra ngăn con đường trước mặt kinh thành, không cho ai đi qua lại. Nên gọi là CỬA NGĂN
2️⃣ Cửa Sập (cửa Quảng Đức): cửa này bị sập năm 1953 do lụt. Trước 1945, cửa này cũng dành cho vua và hoàng gia đi nên còn cửa Ngăn ( cửa ngăn Trên, còn cửa Ngăn hiện này thì gọi là cửa Ngăn dưới). Năm 1998, cửa Sập được trùng tu.
Hiện tại thì đa phần người dân dùng từ cửa Quảng Đức, tên cửa Sập chỉ vài người lớn tuổi dùng, đặc biệt là người ở gần khu vực cửa Sập.
9 cửa còn lại (mỗi phía thành có 2 cửa) với tên chữ ứng với vị trí của nó. Và đồng thời cũng có tên gọi dân gian
Phía nam: Ngoài Cửa Ngăn và Cửa Sập cho vua và hoàng gia thì còn thêm 2 cửa:
3️⃣ Cửa Nhà Đồ (cửa Chánh Nam – Đường Nguyễn Trãi): thời vua Gia Long có 1 kho chứa binh khí, có thợ làm đồ dùng cho nhà vua gọi là Đồ Gia, dịch sang tiếng Việt là Nhà Đồ. Cửa Chánh Nam nằm gần Nhà Đồ nên dân gian gọi là CỬA NHÀ ĐỒ
Tên gọi này đến nay vẫn còn dùng
4️⃣ Cửa Thượng Tứ (cửa Đông Nam) – Đường Đinh Tiên Hoàng: cửa này nằm gần viện Thượng Tứ (Trường Tiểu học TRẦN QUỐC TOẢN bây giờ) chuyên môn trông coi việc nuôi ngựa để kéo xe cho vua

Cửa Thượng Tứ
Phía Bắc: gồm 2 cửa
5️⃣ Cửa Hậu (cửa Chánh Bắc – Đường Đinh Tiên Hoàng nối dài): vì tọa lạc ở mặt sau của Kinh thành Huế
6️⃣ Cửa An Hòa (cửa Tây Bắc – Đường Nguyễn Trãi): vì mặt trước có làng An Hòa và chợ An Hòa
Phía Đông: gồm 2 cửa
7️⃣ Cửa Đông Ba (cửa Chánh Đông – Đường Mai Thúc Loan): cửa này liên quan đến chợ Đông Ba. Thời xưa tại đây có chợ tên là Quy Giả, sau này đổi tên thành chợ Đông Hoa
Về sau vì phạm úy chữ HOA nên tên chợ được đổi thành Chợ Đông Gia, nhưng vì chữ GIA khó đọc nên người dân đọc thành Đông Ba. Sau này chợ được dời ra vị trí hiện tại như bây giờ
8️⃣ Cửa Kẻ Trài (cửa Đông Bắc – Đường Kẻ Trài): phía trước cửa này bên kia sông đào Đông Ba có xóm mang tên Kẻ Trài, hiện cửa này dẫn vào khu quân đội
Cửa này thì nhiều người ở Huế không biết, đặc biệt là người trẻ. Lý do chính là không mấy người được đi qua cổng này
Phía Tây: có 2 cửa
9️⃣ Cửa Chánh Tây (Đường Thái Phiên): Vẫn gọi theo tên đúng của nó là Cửa Chánh Tây
? Cửa Hữu (cửa Tây Nam – Đường Yết Kêu): vì nằm bên phải (hữu) của Kinh thành
11. Trấn Bình Môn: Đây là cửa từ Kinh Thành ra TRẤN BÌNH ĐÀI, một thành phụ nằm ở gốc Đông Bắc Kinh Thành. Người dân hay gọi là Mang Cá nhỏ. Để tới được cửa này thì đi vào đường Mang Cá Nhỏ, chạy hết đường sau đó chạy theo đường mòn bên tay trái là thấy
Trấn Bình Môn – Mấy tòa nhà phía trên hiện tại nằm trong bệnh viện Quân Y 268

Trấn Bình Môn – Đã bị lấp bằng balo – chụp phía sau cửa gỗ

Cầu đá nối Trấn Bình Đài với Trấn Bình Môn – Bắt qua hào chung giữa Kinh Thành và Trấn Bình Đài – Tường thành kia chính là Kinh Thành (vòng ngoài cùng)

Cầu đá nối Trấn Bình Đài với Trấn Bình Môn – Bắt qua hào chung giữa Kinh Thành và Trấn Bình Đài (Nhìn từ phía Kinh Thành ra Trấn Bình Đài)
Nếu nói đúng (xem TRẤN BÌNH ĐÀI thuộc kinh thành Huế) thì để ra khỏi phạm vi kinh thành từ Trấn Bình Môn thì phải đi qua thêm Trường Định Môn – là một trong hai cửa của TRẤN BÌNH ĐÀI – nối TRẤN BÌNH ĐÀI với bên ngoài. Nghĩa là từ Kinh Thành đi qua TRẤN BÌNH MÔN vào TRẤN BÌNH ĐÀI sau đó đi qua TRƯỜNG ĐỊNH MÔN để ra bên ngoài

Trường Định Môn – Một trong hai cửa của Trấn Bình Đài – Đây là cửa thông từ Trấn Bình Đài ra bên ngoài (Hướng nhìn từ ngoài vào Trấn Bình Đài)

Trường Định Môn (Nhìn từ Trấn Bình Đài ra bên ngoài) – Đã bị hư hỏng
2. Tên gọi 2 cửa đường Thủy
Ngoài ra để ra vào kinh thành Huế thì còn 2 cửa ở hai đầu sông Ngự Hà ở phía Đông và Tây là 12. Đông Thành Thủy Quan và 13. Tây Thành Thủy Quan. Tuy nhiên hiện tại thì tại 2 đầu cửa này đều có đập chắn ngang, nên thuyền qua lại cũng khó khăn

Tây thành Thủy Quan

Đông thành Thủy Quan – Cầu Lương Y – Nhìn từ Cầu Ngự Hà (Cầu Kho)

Đông Thành Thủy Quan – Cầu Lương Y – Nhìn từ Cầu Thanh Long (Huỳnh Thúc Kháng)
Tham khảo: kiến thức tham khảo từ sách của 2 nhà Huế học: PHAN THUẬN AN và NGUYỄN ĐẮC XUÂN
Nếu bạn lần đầu đến với Huế thì có thể tham khảo thêm các bài viết bên dưới để chuyến đi của bạn thú vị hơn
Nếu bạn cần thuê xe máy, xe oto tự lại hay có lái tham khảo thêm bên dưới:
Mời các bạn ghé đọc chuỗi bài viết trong chuyên mục KHÁM PHÁ HUẾ của Lá Quê để tìm hiểu thêm về lịch sử Huế
Kinh thành, địa danh và một vài công trình liên quan
Cửa biển Thuận An qua các thời kỳ thay đổi như thế nào ?
Tìm hiểu về hệ thống thành quách ở cố đô Huế
Sông Hương có từ bao giờ ? – Khám Phá Huế
Thành Trấn Hải – Tuyến đầu bảo vệ kinh đô triều Nguyễn
Lăng Cơ Thánh – Vì sao được gọi là lăng Sọ ?
Nghinh Lương Đình – Nơi nghỉ chân, hóng mát của vua triều Nguyễn
Hoàng thành, Tử Cấm thành và các cung điện
Điện Thái Hòa – Nơi diễn ra các nghi lễ trọng đại của triều Nguyễn
Thế Miếu – Nơi thờ phụng các vua Nguyễn
Bài viết hay lắm nha bạn
Thông tin rất hữu ích