Nội dung
Bài 4: LĂNG TỰ ĐỨC (Khiêm Lăng)
>>> Xem thêm: Tổng hợp các lăng vua Nguyễn
Lịch sử xây dựng lăng Tự Đức
Lăng Tự Đức được xây dựng trong một bối cảnh lịch sử cực kỳ khó khăn của đất nước và của chính bản thân nhà vua.
Vua sinh năm 1829, lên ngôi năm 20 tuổi (1848). Sau đó 10 năm, vì triều đình Huế áp dụng chính sách đối ngoại hẹp hòi, thực dân Pháp tấn công Đà Nẵng (1858), rồi vào đánh chiếm Gia Định (1859) và một số tỉnh khác ở Nam Kỳ (1862) …
Vua Tự Đức đã là người hấp thụ khá đầy đủ nền văn hóa và triết học Đông phương với một số mâu thuẫn nội tại của nó giữa cái tích cực lúc trẻ và tiêu cực lúc già, giữa sự sống và cái chết. Càng thất bại trước việc nước, việc nhà, khi càng luống tuổi, ông càng bị quan yếm thế. Nghĩ rằng cái chết tất nhiên sẽ đến với mình và để vơi bớt những dằn vặt khổ đau trong quãng đời còn lại, nhà vua hạ lệnh xây dựng lăng tẩm như một hoàng cung thứ hai để thỉnh thoảng lên đây tiêu khiển, nghỉ ngơi, và cũng để “làm ngôi nhà lâu dài của trẫm” (vi ngô vĩnh vũ – trích bài Khiêm Cung Ký).
Đứng trong thời đại ngày nay nhìn lại hoàn cảnh khó khăn bây giờ của đất nước, quy mô kiến trúc lớn lao tốn kém của lăng vua, và các danh xưng Khiêm Cung, Khiêm Lăng được dùng để đặt tên cho nó, chúng ta thấy đó cũng là một mâu thuẫn nội tại khó biện minh được của chính nhà vua.
Nhưng, dù sao, sau khi xây lăng xong, vua Tự Đức cũng còn sống thêm 16 năm nữa, cho đến năm 1883, thọ 55 tuổi.
Sau khi các quan chuyên môn về địa lý đi coi đất và chọn được vị trí ở làng Dương Xuân Thượng, vua Tự Đức đã “chuẩn định” đồ án kiến trúc lăng tẩm theo sở thích của mình vào tháng 10-1864. Nhưng còn phải coi ngày cho tốt nữa, nên đến tháng 12 mới khởi công xây dựng.
Toàn bộ công tác xây dựng lăng tẩm này được dự liệu sẽ thi công trong 6 năm với 3.000 lính và thợ, và họ sẽ được thay phiên nhau về nghỉ 3 tháng một lần. Nhưng viên Biện lý Bộ Công bấy giờ là Nguyễn Văn Chất tâu xin thực hiện trong 3 năm mà thôi. Triều đình cử ông và thống chế Lê Văn Xa ở Bộ Binh đứng ra coi sóc việc thi công.
Đã không được thay phiên nhau về nghỉ, lại bị cưỡng bức tăng cường sức lao động đến mức tối đa trong những điều kiện tối thiểu, 3.000 lính và thợ bất mãn đã nghe theo tiếng gọi nổi dậy của Đoàn Trưng. Đêm 16 rạng ngày 17-9-1866, họ dùng chiêu bài tôn phò “Ngũ đại hoàng tôn” kéo về Kinh thành để lật đổ ngai vàng của vua Tự Đức nhằm đưa Ưng Đạo, cháu nội 5 đời của vua Gia Long lên ngôi, nhưng khi vào đến được điện Thái Hòa thì bị quân của triều đình phản ứng mạnh, nên thất bại. Cuộc nổi loạn bị đập tan hoàn toàn. Một biến cố dưới triều Tự Đức đã qua đi, nhưng uy tín của nhà vua bị tổn thương không ít, vì đây không phải là một cuộc ngoại xâm, mà là một cuộc nội biến ngay giữa lòng triều đình trung ương.
Công tác xây lăng bị gián đoạn trong gần một tháng rưỡi vì binh biến ấy. Nguyễn Văn Chất và Lê Văn Xa bị cách chức vì đã “khắc bạc” với lính và thợ xây lăng. Ngày 26-10-1866, vua Tự Đức sai Thượng thư Bộ Hình Phan Huy Vịnh, Phó Đô Ngự sử Lê Bá Thận và Biện lý Bộ Lại Nguyễn Lâm lên Khiêm Cung tập hợp binh sĩ và thợ thuyền trở lại, đọc một bản cáo thị do nhà vua viết để phủ dụ họ tiếp tục công tác. Ba ông quan ấy được giao nhiệm vụ điều khiển làm lăng cho đến khi công trình hoàn tất vào tháng 9-1867.
Riêng bài “Khiêm Cung Ký” dài gần 5.000 chữ do chính vua Tự Đức viết năm 1871 thì đến năm 1875 mới được khắc vào tấm bia đá thanh khổng lồ nặng khoảng 20 tấn và dựng tại Bi đình.
Trong các vua Nguyễn, vua Tự Đức là người uyên thâm nhất về nền học vấn Đông phương, nhất là Nho học.
Vua giỏi về cả sử học, triết học, văn học, nghệ thuật và đặc biệt là rất giỏi thơ. Vua Tự Đức để lại 600 bài văn và 4.000 bài thơ chữ Hán, và khoảng 100 bài thơ chữ Nôm. Thơ văn nhà vua phản ánh một con người nhân hậu, một tâm hồn đa cảm, một tư chất hâm mộ nghệ thuật. Tư chất ấy cũng lộ rõ trên nghệ thuật kiến trúc của lăng vua. Sử cho biết, chính nhà vua đã “chuẩn định” mô thức xây dựng nó.
Kiến trúc lăng Tự Đức
Trong vòng La thành rộng khoảng 12 ha, gần 50 công trình kiến trúc lớn nhỏ dàn trải thành từng cụm trên những thế đất phức tạp cao thấp hơn nhau chừng 10m. Nhưng, các hệ thống bậc cấp lát đá thanh, các lối đi quanh co lát gạch Bát Tràng đã nối tất cả các công trình kiến trúc lại thành một thể thống nhất, tương quan, gần gũi.
Các nhà kiến trúc thời Tự Đức đã lợi dụng nguồn nước tự nhiên của một con suối nhỏ để nới rộng, đào sâu và uốn nắn các thế đất lại, tạo nên hồ Lưu Khiêm và đắp thành đảo Tịnh Khiêm thơ mộng. Đình tạ mọc lên ven hồ, trên đảo, soi bóng xuống mặt nước phẳng lặng trong xanh. Đến mỗi mùa hè, sen trắng sen đỏ trong hồ nở hoa như gấm dệt.
Qua khỏi Khiêm Cung Môn, cửa tam quan hai tầng dựng trên một thế đất cao, người ta bước vào một hệ thống cung điện gồm vài chục tòa nhà lớn nhỏ và các công trình kiến trúc phụ thuộc. Tòa ngang dãy dọc nơi đây đã được dành cho vua và đoàn cung nữ tùy tùng thỉnh thoảng lên ở lại vui chơi. Riêng Minh Khiêm Đường, ngày nay được xem là nhà hát xưa nhất Việt Nam đang còn tương đối nguyên vẹn, mang những giá trị cao về nghệ thuật kiến trúc và trang trí. Điện Hòa Khiêm, nơi thờ đế và hậu, hiện còn chứa nhiều đồ ngự dụng và các tác phẩm mỹ thuật đương thời.
Nếu nhà cửa ở Khiêm Cung đều làm bằng gỗ thì tất cả các công trình kiến trúc ở khu vực lăng mộ bên kia đều xây bằng gạch, đá. Đáng để ý nhất là tấm bia lớn nhất Việt Nam cao chừng 5m, được bảo vệ bằng một tòa nhà đồ sộ kiên cố với cột to, vách dày và xây cửa cuốn. Các nhà kiến trúc đã cho xây Bi đình bằng vật liệu và kiểu thức như vậy là dùng để chống chọi với thời gian. Trên ngọn đồi nằm bên kia hồ bán nguyệt Tiểu Khiêm Trì là Bửu thành xây bằng gạch và chính giữa có ngôi nhà nhỏ xây bằng đá thanh, nơi vua yên nghỉ. Bửu thành được bao phủ bởi một rừng thông xanh ngắt, reo vi vu suốt bốn mùa.
Ngoài ra, hệ thống tháo thoát nước trong toàn lăng tẩm đã được thiết kế, xây dựng với một trình độ cao, và lưu thông rất tốt.
Nhìn chung, mỗi công trình kiến trúc trong lăng Tự Đức đều mang một đường nét khác nhau về nghệ thuật tạo hình không trùng lặp và rất sinh động. Cách phân bố các khu vực và cách bố cục các công trình kiến trúc trong từng khu vực ở lăng Tự Đức đã phá bỏ thông lệ giữ gìn sự đối xứng cổ điển như ở một số lăng khác.
Tại đây còn có những lối đi uốn lượn mềm mại theo thế đất tự nhiên hoặc do bàn tay con người tạo dáng. Đường nét kiến trúc thật phóng khoáng, hài hòa với thiên nhiên có sẵn, hoặc cải tạo lại cho phù hợp với nghệ thuật kiến trúc cảnh quan.
Nếu phá vỡ sự đối xứng cũng là một nét đẹp trong nghệ thuật thì lăng Tự Đức có thêm nét đẹp đó. Kiến trúc và thiên nhiên ở đây gây được nhiều cảm xúc thẩm mỹ mới lạ cho người đến tham quan, và phản ánh được tâm hồn lãng mạn trữ tình của một ông vua thi sĩ.
Lăng Tự Đức là một bài thơ tuyệt tác, một bức tranh sơn thủy hữu tình gợi cho du khách một “hồn êm thơ mộng”
Tham khảo: LĂNG TẨM HUẾ – Phan Thuận An
Thông tin du lịch lăng Tự Đức
Địa chỉ: Phường Thủy Xuân, Tp Huế, TT Huế
Giá vé năm 2020:
- Người lớn: 50.000đ
- Trẻ em từ 7 – 12 tuổi hoặc có chiều cao từ 0.8 – 1.3m: miễn phí
Đường đi:
- Đi theo hướng dẫn của google maps – Vị trí khá rõ ràng, dễ đi
- Những bạn không rành dùng Google Maps thì hỏi thăm người dân đường Điện Biên Phủ, chạy hết đường gặp Đàn Nam Giao thì hỏi người dân đường lên lăng Tự Đức (ai cũng biết)
Một vài hình ảnh khu lăng Tự Đức
>>> Mời các bạn ghé đọc chuỗi bài viết trong chuyên mục KHÁM PHÁ HUẾcủa Lá Quê để tìm hiểu thêm về lịch sử Huế\\\\