Nội dung
Vua Gia Long, tên thật là Nguyễn Phúc Ánh, lên ngôi Hoàng đế tại Phú Xuân năm 1802. Được xem là vị vua thống nhất đất nước Việt Nam. Mặc dù lịch sử vẫn còn nhiều tranh luận về công, tội cũng như mối thù truyền kiếp giữa vua Gia Long và anh em nhà Tây Sơn, nhưng giang sơn Việt Nam ta có được như ngày hôm này chính là nhờ vào vị vua này. Và Gia Long cũng là vị vua mở đầu cho 143 năm thằng trầm trong lịch sử triều Nguyễn, triệu đại phong kiến cuối cùng của Việt Nam.
Vua Gia Long
- Niên hiệu: Gia Long
- Năm sinh, năm mất: 1762 – 1820
- Giai đoạn trị vì: 1802-1820
- Miếu hiệu: Thế Tổ Cao Hoàng Đế
- Tên húy: Nguyễn Phúc Ánh
>>> Xem ngay:
Lăng vua Gia Long
Tiểu sử các vị vua triều Nguyễn
Cuộc đời bôn ba của vị chúa trước khi thống nhất sơn hà
Thời Trịnh Nguyễn phân tranh, năm Ất Dậu (1765), Chúa Vũ Nguyễn Phúc Khoát mất. Quyền thần Trương Phúc chuyên quyền thay chúa đổi ngôi, đưa ra Nguyễn Phúc Thuần mới 12 tuổi lên ngôi Chúa để dễ bề khống chế. Từ đó, Đàng Trong bắt đầu đi vào con đường suy thoái, sưu cao thuế nặng, khắp nơi đều vang lên tiếng than oán và cuối cùng để làm việc ba anh em nhà Tây Sơn khởi nghĩa năm Quý Tỵ (1773).
Lợi dụng lúc Đàng Trong có nội loạn, Chúa Trịnh xua quân qua sông Linh Giang tấn công Phú Xuân (Huế). Phú Xuân thất thủ, tôi chúa họ Nguyễn phải chạy vào Gia Định, kết thúc sự nghiệp của Chúa Nguyễn ở Đàng Trong.
Trong số người chạy loạn có Nguyễn Ánh bấy giờ mới 13 tuổi. Nguyễn Ánh là con của hoàng tử Nguyễn Phúc Côn và bà Nguyễn Thị Hoàng. Nguyễn Ánh (hay Nguyễn Phúc Ánh) sinh ngày 15 tháng năm Nhâm Ngọ (1762), thuở thiếu thời là một con người có chí và thông minh vì thế rất được Chúa yêu, tuy còn nhỏ nhưng ông được Chúa phong cho chức Chưởng sứ, ông đã tỏ ra là một tướng cầm quân có tài.
Năm Tân Dậu (1777), Nguyễn Huệ đem quân đánh chiếm Gia Định, chúa tôi họ Nguyễn phải bỏ thành kéo tàn quân chạy về Định Tường, Cần Thơ. Quân Tây Sơn truy lùng gắt gao, bắt được và giết chết Tân Chính Vương Nguyễn Phúc Dương, Nguyễn Ánh bắt đầu một cuộc sống long đong. Vài năm sau, Nguyễn Ánh lấy lại Sài Côn (Sài Gòn) rồi tiến ra lấy lại Bình Thuận. Năm Canh Tý (1780), Nguyễn Ánh lên ngôi vương ở Gia Định, Năm Nhâm Dần (1782), thế lực Nguyễn Vương ngày càng mạnh, Nguyễn Nhạc và Nguyễn Huệ kéo quân vào đánh, Sài Gòn lại thất thủ, Nguyễn Vương lại bôn tẩu về Hà Tiên rồi chạy ra đảo Phú Quốc.
Nguyễn Vương vốn là người có chí nên ông bất chấp nhận gian khổ, canh cánh trong lòng mối thù phục quốc. Chính vì thế nên khi biết được giám sát mục Pháp Bá Đa Lộc (Pigneau de Béhaine), người có uy tín và thế lực tại Pháp thời bấy giờ đang ở Đàng Trong, Nguyễn Vương không quản ngại cho mời giám đốc mục tới và nhờ ông làm sứ giả trong việc cầu viện Pháp. Nguyễn Vương đã để con trưởng của mình là Nguyễn Phúc Cảnh mới 4 tuổi theo giám mục Bá Đa Lộc sang Pháp làm con tin.
Trong thư gửi Vua Pháp (Louis XVI), Nguyễn Vương xin Pháp giúp 1.500 lính và tàu bè, súng ống, vật dụng. Để đền bù, Pháp được độc quyền buôn bán ở nước Việt Nam, nhường cho nước Pháp đảo Côn Lôn (Côn Đảo) và cảng Hội An (có sách nói là Đà Nẵng).
Khi đưa con đi rồi Nguyễn Vương cũng từ giã mẹ và vợ để sang Xiêm La (Thái Lan) cầu viện. Tới tháng 6 năm 1784, vua Xiêm cho tướng Chiêu Tăng và Chiêu Sương đem 20 vạn quân và 300 chiếc chiếc thuyền sang giúp Nguyễn Vương. Lúc đầu quân Xiêm đại thắng chiếm nhiều tỉnh Kiên Giang, Trà Ôn, Sa Đéc. Sau đích thân Nguyễn Huệ đem đại quân vào đánh, quân Xiêm đại bại thua bỏ chạy về nước, Nguyễn Vương chạy theo về Xiêm La lánh nạn.
Tháng 5 năm Bính Ngọ (1786), Nguyễn Huệ theo kế hoạch của Nguyễn Hữu Chỉnh tiến chiếm Phú Xuân rồi thừa thắng tiến ra Thăng Long diệt họ Trịnh. Việc Nguyễn ra Bắc làm cho Nguyễn Nhạc (anh của Nguyễn Huệ) nghi ngờ nên cũng vội vã đem quân ra Bắc, hai anh em gặp nhau Thăng Long rồi cùng về. Nguyễn Huệ được đóng quân ở Phú Xuân và được phong là Bắc Bình Vương. Từ đó anh em Tây Sơn có mầm mống bất hòa, nhiều lần hai anh em đã đem quân đánh nhau.
Vì ham tranh quyền nên anh em Tây Sơn không ngó ngàng gì đến xứ Đàng Trong nhất là từ Quy Nhơn (Bình Định) trở vào. Lợi dụng thời cơ đó, Nguyễn Vương đã cùng với các bộ tướng cũ, tháng 9 năm Đinh Mùi (1787), trở thành và nước. Ông đã được dân Nam Bộ giúp đỡ rất nhiều, có nhiều tướng giỏi đến phò tá như Võ Tánh, nên chả mấy chốc mà lực lượng Nguyễn Vương đã lớn mạnh. Khi Đông Định Vương Nguyễn Lữ phải bỏ Gia Định trở về Quy Nhơn. Nguyễn Vương lấy lại toàn bộ xứ Gia Định đặt làm bản doanh và bắt đầu tổ chức việc cai trị. Năm Canh Tuất (1790) Nguyễn Vương đắp lại thành Gia Định theo kiểu bát quái có 8 cửa bằng đá ong.
Thấy Nguyễn Vương lớn mạnh, tháng 3 năm Nhâm Dần (1782) vua Thái Đức Nguyễn Nhạc nhà Tây Sơn đem quân vào đánh nhưng bị quân Nguyễn Vương đánh lui. Từ đó về sau, quân Tây Sơn luôn thất bại khi đem quân vào đánh.
Ở Phú Xuân, Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ lại tiến quân ra Bắc tiêu diệt nhà Lê rồi cho Ngô Văn Sở và Ngô Thời Nhiệm ở lại cai trị Bắc Hà. Vua Lê Chiêu Thống chạy qua Trung Quốc cầu viện Thanh. Nhà Thanh sai Tôn Sĩ Nghị đem 20 vạn quân sang đánh. Được tin, Bắc Bình Vương Nguyên Huệ lên ngôi Hoàng đế ở Phú Xuân, lấy hiệu là Quang Trung, thống lĩnh đại quân tiến ra Bắc đánh tan 20 vạn quân Thanh, Tôn Sĩ Nghị phải chạy thoát thân bỏ quên cả ấn tín.
Năm Nhâm Tý (1792), vua Quang Trung đột ngột băng hà, con là Quang Toản lên ngôi mới 10 tuổi, vì thế vương triều Tây Sơn nhanh chóng rơi vào suy vong.
Vua Gia Long lên ngôi Hoàng đế tại Phú Xuân. Bắt đầu xây dựng đất nước
Được tin vua Quang Trung băng hà, Nguyễn Vương rất vui mừng, đẩy mạnh việc chuẩn bị đánh nhà Tây Sơn. Dưới trướng Nguyên Vương bấy giờ có nhiều quan chức người nước ngoài cố vấn kỹ thuật cho Nguyễn Vương trong lĩnh vực quân sự, vũ khí, đắp thành, vv .. Cuộc chiến kéo dài đến năm Tân Dậu (1801) Nguyễn Vương chiếm lại được Phú Xuân, và ngày mùng 2 tháng 5 năm Nhâm Tuất (1802) Nguyễn Vương lên ngôi hiệu là Gia Long. Lên ngôi xong vua Gia Long đưa quân tiến ra Bắc, quân Tây Sơn tan rã lần hồi. Đến tháng 6 cùng năm thì Gia Long thống nhất sơn hà, kết thúc cuộc nội chiến kéo dài gần 300 năm.
Để trả thù, Gia Long ra lệnh quật mã vua Nguyễn Nhạc và Nguyễn Huệ lên. Đem vứt thây đi còn đầu thì bỏ giam trong ngục tối (có sách viết là đốt thành tro rồi đổ xuống sông, còn sọ thì làm gáo đựng nước tiểu).
Ở trong cung, nhà vua không đặt ngôi hậu, chỉ có ngôi hoàng phi và các cung tần. Sau khi vua mất, con lên ngôi, mới tôn mẹ lên làm Hoàng Thái hậu.
Ngài lập Văn Miếu ở các trấn, thờ đức Khổng Tử. Mở trường lớn ở Kinh đô để dạy con các quan và các sĩ tử (sau này vua Minh Mạng đổi tên là Quốc Tử Giám). Mở khoa thi Hương để chọn những người có học ra làm quan …
Vua Gia Long không theo đạo Thiên Chúa dù có nhiều thiện cảm với các giáo sĩ, nhưng Hoàng tử Cảnh đã theo đạo khi ở chung với Giám mục Bá Đa Lộc hồi nhỏ. Một lá thư của Cha Lelabousse viết vào tháng 6-1792 cho biết: “Trong buổi lễ có tiền tố vào cuối tháng 7-1789, Hoàng tử Cảnh nhất định không đến lại trước bàn thờ tổ tiên đã làm cho Nguyễn Vương đau khổ tủi nhục và tức giận, vứt bỏ phẩm phục, mũ niệm, nói rằng ông là một người cha bất hạnh “.
Tuy vậy Gia Long vẫn kính trọng giám mục, trong một lá thư giám mục viết cho Hội truyền giáo hải ngoại năm 1795, Giám mục kể rằng trong năm đó có mười chín ông quan trong triều đình viết sớ đưa cho Nguyễn Anh xin ngài thận trọng đừng để Giám mục lo công việc huấn luyện Hoàng tử Cảnh. Nguyễn Vương nổi trận lôi đình, vứt sớ xuống đất và kể những công trạng của Giám mục đối với gia đình và sự nghiệp của Vương. Nguyễn Ánh hăm dọa sẽ phạt thẳng tay những người có ý nghĩ xấu này. Xong Vương vào hậu cung kể lại cho vợ nghe và hai người quyết định dấu chuyện này không cho Giám mục biết.
Ngày 19 tháng 12 năm Canh Thìn (3-2-1820) vua Gia Long băng hà, 58 tuổi.
Lăng Vua Gia Long – Nơi yên nghỉ của đấng minh quân
Lăng Gia Long tọa lạc ở vùng núi ở đó là Thiên Thọ Sơn, gồm 42 ngọn núi đồi cao thấp được đặt 42 tên riêng. Tổng thể diện tích khu lăng hơn 2.875 ha. Được hoàn thiện dưới ba đời vua từ Gia Long đến Thiệu Trị.

>>> Xem ngay: Lăng Gia Long – Nơi yên nghỉ của vị vua thống nhất đất nước
Hoàng tử Nguyễn Phúc Cảnh sinh ngày 2 tháng 3 năm Canh Tý (6-4-1780) tại Gia Định, con của Nguyễn Ánh và bà Tống Thị Lan (sau là Thừa Thiên Cao Hoàng hậu). Năm 4 tuổi, Hoàng tử được gửi theo Giám mục Bá Đa Lộc sang Pháp cầu viện, đến năm 1789 mới trở về với gia đình. Mùa Xuân năm Nhâm Tý (1792), Hoàng tử lên 12 tuổi, Nguyễn Vương lập ông làm Đông Cung, phong chức Nguyên Súy Quận công. Mùa Xuân năm Tân Dậu Thái tử bị bệnh đậu mùa và mất vào ngày 7 tháng 2 năm Tân Dậu (20-3-1801), thọ 22 tuổi. Ông có hai người con trai. Con trưởng là Nguyễn Phúc Mỹ Đường (còn có tên là Đán), con là Nguyễn Phúc Mỹ Thùy (còn có tên là Kính). Ông Kỳ Ngoại Hầu Cường Để là cháu năm đời của Hoàng tử Cảnh.
Tham khảo: Bí sử Triều Nguyễn – Minh Châu
>>> Xem ngay:
Lăng vua Gia Long
Tiểu sử các vị vua triều Nguyễn