Thế miếu nằm phía bên trong góc tây nam của Hoàng thành. Ở địa điểm Thế Miếu tọa lạc ngày nay, vào năm 1804, vua Gia Long đã cho xây dựng miếu Hoàng Khảo để thờ thân phụ của mình là Nguyễn Phúc Luân. Đến năm 1821, sau khi vua Gia Long thăng hà, vua Minh Mạng cho dời miếu Hoàng Khảo lùi về phía sau khoảng 50m và đổi tên thành Hưng Miếu, còn vị trí ấy được dùng để xây dựng Thế Miếu.
Khi xây dựng Thế Miếu vào những năm 1821-1822, cũng như khi đúc Cửu đỉnh sau đó khoảng 15 năm, vua Minh Mạng đã nhắm đến một mục đích rất rõ ràng là để thờ phụng vua Gia Long và những vị vua kế nghiệp. Nhưng mãi đến cuối thời Pháp thuộc (1954), tại Thế Miếu chỉ thờ 7 vua, mỗi vua ở một gian (còn những gian kia thì để trống). Bảy gian thờ được thiết trí theo nguyên tắc “Tả chiêu hữu mục”(nhìn từ trong ra):
- Gian Chánh trung: thờ vua Gia Long (1802-1819).
- Gian Tả nhất: thờ vua Minh Mạng (1820-1840).
- Gian Hữu nhất: thờ vua Thiệu Trị (1841-1847)
- Gian Tả nhị: thờ vua Tự Đức (1848-1883).
- Gian Hữu nhị: thờ vua Kiến Phúc (1884).
- Gian Tả tam: Thờ vua Đồng Khánh (1886-1888).
- Gian Hữu tam: thờ vua Khải Định (1916-1925).
Còn các vua Dục Đức (làm vua 3 ngày), Hiệp Hòa (làm vua 4 tháng), Hàm Nghi (1885), Thành Thái (1889-1907) và Duy Tân (1907-1916), vì bị Nam triều và chính quyền Bảo hộ liệt vào hàng “phế đế” hoặc “xuất đế”, nên không được thờ ở đây. Đến khoảng năm 1958, bà con Nguyễn Phúc tộc và chính quyền địa phương xét thấy 3 vua Hàm Nghi , Thành Thái và Duy Tân là những vị vua yêu nước có tinh thần chống Pháp, nên đã tổ chức một cách trọng thể cuộc lễ cung nghi long vị của 3 vị vua này từ nhà thờ riêng của con cháu họ đến thờ ở Thế Miếu. Từ đó, tại Thế Miếu mới có 10 vị vua được thờ như chúng ta đang thấy.
Thế Miếu có mặt bằng xây dựng khá lớn: khoảng 1.500m2 với chiều dài 54,60m và bề rộng 27,70m. Đây cũng là một tòa nhà kép làm theo kiểu “trùng lương trùng thiềm”. Tiền doanh (nhà trước) có 11 gian và 2 chái đơn. Chính doanh (nhà sau) có 9 gian và 2 chái kép. Hai bộ mái được nối lại với nhau bằng trần thừa lưu. Tất cả có ‘chung một đường mà ngăn riêng từng thất”(đồng đường dị thất) bằng các hàng cột. “Từng thất” nghĩa là từng gian. Khi “thỉnh” 3 vị vua yêu nước nói trên vào thờ tại đây, người ta đã phải cải tạo một phần của cái chái kép bên trái chính doanh, nhằm có thêm được một gian nữa để thờ cho đủ 10 vua.
Nền Thế Miếu cao 94cm. Mặt nền xưa lát gạch Bát Tràng tráng men vàng và lục. Qua những lần trung tu trước năm 1975, nền Tiền doanh đã được thay thế bằng gạch hoa tráng men vàng, còn nền chính doanh thì tráng xi măng.
Bộ khung của tòa nhà này được làm bằng gỗ lim. Trên chính doanh có đóng trần, được sơn màu vàng nhạt. Tất cả cột kèo, hoành trến, đòn tay, liên ba, đố bản đều sơn son thếp vàng. Đặc biệt là các án thờ, sập thờ và khám thờ, màu sắc sơn thếp hết sức rực rỡ. Các bức liên ba đều được phân khoảng thành ô hộc để trang trí bằng cách chạm khắc thơ văn chữ Hán và hình ảnh xen kẽ nhau theo lối “nhất thi nhất họa”. Nghệ thuật điêu khắc các hoa văn, họa tiết trên hệ thống vì kèo giả thú ở tiền doanh là rất điêu luyện, công phu. Ở phía trước mỗi khám thờ và sập thờ đều có treo một bức sáo trúc vẽ hình rồng mây để che tạo thêm sự nghiêm cẩn. Chỉ khi nào có cúng tế thì những bức sáo ấy mới được cuốn lên để hành lễ. Ngày xưa, đồ tự trí được thiết trí ở các gian thờ là rất phong phú và quý báu.
Bộ mái Thế Miếu nguyên xưa được lợp bằng ngói hoàng lưu ly (ngói ống tráng men vàng), nay đã được thay thế bằng ngói ấm dương tráng men. Ở chính giữa bờ nóc tiền doanh được chắp bình thiên hồ bằng pháp lam ngũ sắc. Cuối bờ nóc và các bờ quyết đều đắp hình rồng, nhưng đơn giản, có lẽ vì đã được làm lại trong những lần trung tu về sau. Trong các ô hộc ở bờ nóc và các bờ quyết cũng như ở dải cổ diềm, nguời ta chỉ vẽ các đề tài tranh cảnh ước lệ cổ điển, chứ không có hoa văn chữ Hán như ở nội thất.
Sân Thế Miếu khá rộng, lát gạch Bát Tràng, chỉ trừ Thần đạo ở chính giữa là lát đá Thanh. Gần trước thềm miếu có một hàng đôn bằng đá chạm gồm 14 cái, trên đó đặt 14 chiếc thống sứ lớn, bên trong trồng cây kiểng. Trong sân, đặt hai hàng đế bằng đá Thanh gồm 8 cái dùng để cắm tàng mỗi khi tế lễ.
Tại hai góc sân phía trước, thiết trí hai con kỳ lân bằng đồng, mỗi con đứng trong một thiết đình. Chung quanh sân và hai bên miếu là những bồn hoa cây cảnh, đặc biệt có một cây lưu niên rất quý, thường được gọi là “cây tùng Thế Miếu”, với hình dáng cổ kính, nghe nói là đã được vua Minh Mạng trồng vào năm 1822 khi Thế Miếu vừa xây xong .
Ngoài ra, hai bên trái phải của tòa miếu chính ấy, còn có hai công trình kiến trúc phụ thuộc dạng phương đường (nhà vuông): bên trái là điện Canh Y (nay không còn) và bên phải là miếu thờ Thổ công (mới được trùng tu cách đây không lâu).
Thế Miếu là miếu thờ quan trọng nhất của các vua triều Nguyễn, và nó mang nhiều giá trị lịch sử cũng như nghệ thuật, cho nên, tòa nhà to lớn này đã được trùng tu nhiều lần trước và sau năm 1954, mà đợt trùng tu gần đây nhất là vào những năm đầu thập niên 2000.
Dưới thời Triều Nguyễn, khu vực này cùng với Hưng Miếu là nơi chỉ dành cho nam giới. Nữ giới không được phép bước chân vào đây, cho dù họ là ai.
Thế Miếu là một trọng điểm trong tuyến tham quan Hoàng cung Huế.
Thông tin du lịch Thế Miếu
Thế Miếu là 1 điểm tham quan mà hầu hết các tour dẫn khách vào Đại Nội Huế đều có. Khu vực này thường có thêm những điểm đến như: Cửu đỉnh (ngay trước sân Thế Miếu), Hiển Lâm Các…
Mời các bạn ghé đọc chuỗi bài viết trong chuyên mục KHÁM PHÁ HUẾ của Lá Quê để tìm hiểu thêm về lịch sử Huế.